Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy bài 24:“ Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873_ lớp 8
Ngày đăng: Lượt xem:
TÍCH HỢP KIẾN THỨC LIÊN MÔN DẠY MÔN LỊCH SỬ
I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
1. Lí do chọn đề tài
Thực trạng của việc dạy và học lịch sử trong nhà trường phổ thông hiện còn những tồn tại là nội dung của nhiều bài giảng lịch sử rất khô khan, nhiều sự kiện nên chưa tạo được hứng thú học lịch sử đối với học sinh. Học sinh hiểu một cách rời rạc, nông cạn về kiến thức lịch sử, không nắm được mối liên hệ hữu cơ giữa các tri thức thuộc lĩnh vực đời sống xã hội, về kiến thức liên môn…
Dạy học theo chủ đề tích hợp là một trong những nguyên tắc quan trọng trong dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng, đây được coi là một quan niệm dạy học hiện đại, nhằm phát huy tính tích cực của học sinh, đồng thời nâng cao chất lượng giáo dục. Dạy học tích hợp làm cho người học sử nhận thức được sự phát triển xã hội một cách liên tục, thống nhất, thấy được mối liên hệ hữu cơ giữa các lĩnh vực của đời sống xã hội, khắc phục được tính tản mạn rời rạc trong kiến thức.
Dạy học liên môn trong môn Lịch sử là hình thức liên kết những kiến thức giao thoa với môn Lịch sử như Ngữ văn, Địa lí, Tin học, Giáo dục công dân. Rèn luyện kĩ năng sống, Giáo dục bảo vệ di sản văn hóa địa phương… để học sinh tiếp thu kiến thức, biết vận dụng kiến thức lịch sử vào cuộc sống và ngược lại từ cuộc sống để giải quyết các vấn đề liên quan đến lịch sử…
Trong chương trình phổ thông, giáo viên có thể sử dụng phương pháp tích hợp trong hầu hết các bài dạy, từ đó làm tăng hứng thú cho học sinh.
Trong chương trình lịch sử THCS ở 04 khối lớp có rất nhiều bài, phần lịch sử dài với nhiều nội dung và sự kiện cần được phân tích sâu hơn, kỹ hơn và giờ học lịch sử bớt “khô khan” hơn, muốn làm được điều đó học sinh không chỉ nắm vững kiến thức thông sử là đủ mà cần phải biết vận dụng kiến thức của các môn học khác như Địa Lí, Ngữ Văn, GDCD…mới có thể làm được. Qua thực tiễn giảng dạy và nghiên cứu, tôi thấy trong Bài 24 phần lịch sử Việt Nam lớp 8, chỉ dạy những kiến thức đơn thuần thì rất dễ sa vào cứng nhắc, khô khan và khó nắm nội dung một cách hệ thống trong thời gian bó hẹp có 2 tiết, do vậy muốn có được hiệu quả cao trong hai bài học này thì việc tích hợp kiến thức liên môn là hết sức cần thiết, nên tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài: “Tích hợp kiến thức liên môn để dạy bài 24 : Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873 – Lịch sử 8, chương trình chuẩn làm đề tài nghiên cứu khoa học, với hi vọng giúp học sinh có sự hiểu biết sâu sắc và hệ thống về tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc khi chế độ phong kiến Việt Nam đã lâm vào con đường suy vong và phản động vào gữa thế kỷ XIX. Đồng thời, đề tài cũng nhằm góp phần phục vụ cho quá trình giảng dạy của bản thân trong việc tiến hành đổi mới phương pháp dạy học theo tinh thần của Nghị quyết 29 của BCHTW Đảng khóa XI.
2. Mục đích nghiên cứu
Với đề tài này, tôi sử dụng kiến thức một số môn học khác như Địa Lí, Ngữ Văn, GDCD để giảng dạy và làm nổi bật những nội dung trọng tâm của từng bài. Qua đó, giúp học sinh nhận thức được bước đầu những nội dung cơ bản của thời kì lịch sử từ năm 1858 đến năm 1884. Đồng thời qua phần tích hợp, tôi có thể hỏi, kiểm tra được nhận thức của học sinh những kĩ năng học tập bộ môn lịch sử đối với từng giai đoạn trong tiến trình Pháp xâm lược nước ta, cả quá trình vương triều Nguyễn từng bước để mất nước và học sinh cũng có thể vận dụng được những kiến thức cơ bản của bài học để làm rõ hơn một số nội dung của một số môn học khác như Ngữ Văn, GDCD…. Quá trình thực hiện đề tài, tôi mong muốn giờ học Lịch sử phải thực sự là một giờ học hấp dẫn, có ý nghĩa giáo dục, giáo dưỡng và thực sự tạo được hứng thú học tập và phát triển toàn diện cho học sinh.
3. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi của đề tài, tôi vận dụng một số kiến thuộc các môn Địa Lí, Ngữ Văn và GDCD để vận dụng vào dạy bài 24 : Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873 – Lịch sử 8, chương trình chuẩn, qua nội dung tích hợp học sinh có thể hiểu được kiến thức bài học, nhận thức được một cách khái quát quá trình chế độ phong kiến Việt Nam lâm vào khủng hoảng và từng bước rơi vào tay thực dân Pháp, từ đó rút ra được nguyên nhân thất bại, bài học kinh nghiệm của giai đoạn lich sử này và vận dụng nội dung kiến thức này trong học tập và nghiên cứu các môn học khác như Địa Lí, Ngữ Văn…
4. Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận sử học Mác- Lênin, đề tài được thực hiện dựa trên phương pháp nghiên cứu chính là phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic, phương pháp liên ngành,… Phân tích một số nội dung lịch sử trọng tâm của bài học bằng việc dựa trên kiến thức của các môn Địa Lí, Ngữ Văn, GDCD.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Tầm quan trọng của dạy học tích hợp
Theo từ điển Tiếng Việt: Tích hợp là sự kết hợp những hoạt động, chương trình hoặc các thành phần khác nhau thành một khối chức năng. Tích hợp có nghĩa là sự thống nhất, sự hòa hợp, sự kết hợp.
Theo từ điển giáo dục học: Tích hợp là hành động liên kết các đối tượng nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau trong cùng một kế hoạch dạy học.
Trong tiếng Anh, tích hợp có nghĩa là toàn bộ, toàn thể. Có nghĩa là sự phối hợp các hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống ấy.
Tích hợp là một xu thế, một trào lưu dạy học và giáo dục phổ biến trên thế giới trong nhiều thập kỉ qua. Đưa tư tưởng sư phạm tích hợp vào trong quá trình dạy học là cần thiết. dạy học tích hợp là một xu hướng của lí luận dạy học và được nhiều nước trên thế giới thực hiện. Quan điểm dạy học tích hợp được xem là định hướng lí luận của chương trình giáo dục Việt Nam hiện hành và những năm sắp tới.
Trong bộ môn Lịch Sử có rất nhiều nội dung cần có sự phối hợp giảng dạy kiến thức Sử học với các môn khoa học khác, đặc biệt là các môn khoa học xã hội như Ngữ Văn, Địa Lí, GDCD… Ở bài 24 phần Lịch sử Việt Nam lớp 8 là nội dung quan trọng của khối lớp 8 nhưng lượng kiến thức nhiều mà thời lượng trên lớp chỉ có 2 tiết, nên để có thể hiểu được nội dung này một cách sâu sắc những vấn đề cốt lõi của bài học, giảm được thời lượng trên lớp cũng như có thể vận dụng vào việc học tập các môn học khác thì việc vận dụng kiến thức liên môn là hết sức cần thiết ở phần này.
2. Tích hợp kiến thức liên môn trong dạy bài 24:“ Cuộc kháng chiến từ năm 1858 đến năm 1873.
A. Mục tiêu bài học:
1. Về kiến thức: Cần nắm được
– Ý đồ xâm lược Việt Nam của tư bản phương Tây.
– Quá trình xâm lược Việt Nam từ năm 1858 đến năm 1873.
– Cuộc kháng chiến của nhân dân ta từ năm 1858 đến năm 1873
– Nội dung cơ bản một số điều khoản trong Hiệp ước Nhâm Tuất 1862.
– Thái độ và trách nhiệm của triều đình làm mất ba tỉnh miền Đông.
2. Về kỹ năng:
– Rèn luyện kỹ năng phân tích, so sánh, nhận xét, đánh giá sự kiện, vấn đề lịch sử.
– Biết liên hệ, rút ra bài học kinh nghiệm.
3. Về thái độ:
– Hiểu được bản chất xâm lược của chủ nghĩa thực dân và sự tàn bạo của chúng.
– Tự hào về truyền thống chống xâm lược của cha ông.
– Có thái độ đúng mức khi tìm hiểu về nguyên nhân và trách nhiệm của nhà Nguyễn trong việc để mất nước cuối thế kỷ XIX.
– Có nhận thức đúng đối với các sự kiện, nhân vật lịch sử cụ thể.
Với mục tiêu đó và lượng kiến thức của bài tôi đã sử dụng một số kiến thức của các môn học như Địa lý, GDCD, Văn học trong quá trình giảng dạy.
4 . Chuẩn bị:
– Học sinh: Chuẩn bị bài ở nhà, tìm hiểu về phần lịch sử Việt Nam giai đoạn 1858 đến 1873.
– Giáo viên: Chuẩn bị các bảng biểu trên tờ giấy A4, tranh ảnh, lược đồ trên phần mềm Power Point để trình chiếu.
B. Tiến trình tổ chức dạy học: (Ở đề tài này tôi chỉ trình bày những nội dung cần sử dụng bài tập của bài 24, nên tôi không trình bày đầy đủ các bước lên lớp của một tiết học)
Mục I: Thực dân Pháp xâm lược Việt Nam : ( 1 tiết)
1/ Chiến sự ở Đà Nẵng những năm 1858- 1859:
Tôi sử dụng một bài tập lớn sau:
Tình hình Việt Nam giữa thế kỷ XIX trước khi Pháp tiến hành xâm lược? Hành động nào chứng tỏ thực dân Pháp ráo riết chuẩn bị xâm lược Việt Nam và tại sao thực dân Pháp chọn Đà Nẵng làm mục tiêu tấn công đầu tiên?
Đáp án :
* Tình hình Việt Nam:
– Giữa thế kỷ XIX, trước khi Pháp xâm lược, Việt Nam là nước độc lập kinh tế có những bước phát triển nhưng đã bộc lộ những suy yếu.
-Thời nhà Nguyễn, kinh tế công, nông, thương nghiệp sa sút. Nhà Nguyễn thực hiện đường lối đối ngoại thiển cận khiến cho Việt Nam bị cô lập.
– Đời sống nhân dân gặp khó khăn, nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra.
– Khả năng phòng thủ đất nước giảm sút, quốc phòng yếu kém ảnh hưởng trực tiếp đến việc chống lại sự xâm lược của tư bản phương Tây.
Ở phần này giáo viên có thể sử dụng một số câu ca dao, tục ngữ, một số câu thơ để làm nổi bật sự khủng hoảng của chế độ phong kiến dưới triều Nguyễn
vào giữa thế kỉ XIX như:
“Vạn niên là Vạn niên nào
Thành xây xương lính, hào đào máu dân”
Hay câu ca dao:
“Con ơi mẹ bảo con nào
Cướp đem là giặc, cướp ngày là quan”
Hay những câu thơ của nhà thơ Nguyễn Công Trứ:
“Thế thái nhân tình gớm chết thay
Lạt nồng coi chiếc túi vơi đầy”…
Hay những câu thơ:
“ Kiếp sau xin chớ làm người
Làm cây thông đứng giữa trời mà reo
Giữa trời vách đá cheo leo
Ai mà chịu rét thì trèo với thông”
* Hành động của Pháp:
– Pháp đã lợi dụng cơ hội can thiệp vào Việt Nam khi Nguyễn Ánh cầu cứu.
– Năm 1857, Na pô lê ông III lập ra hội đồng Nam Kì để bàn cách can thiệp vào nước ta…..
– Ngày 31-08- 1858, liên quân Pháp- Tây Ban Nha kéo tới cửa biển Đà Nẵng, chuẩn bị nổ súng xâm lược Việt Nam.
Ở nội dung này giáo viên có thể sử dụng lược đồ Khu vực ĐNA và lược đồ Việt Nam và yêu cầu học sinh vận dụng kiến thức Địa Lí để xác định vị trí của Việt Nam trong khu vực ĐNA và Châu Á, cũng như vị trí của Đà Nẵng và trả lời cho câu hỏi: Vì sao Pháp lại chọn Đà Nẵng mở đầu cho cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam?
* Lý do Pháp chọn Đà Nẵng:
Đà Nẵng là một cảng nước sâu lớn, là đầu mối giao thông từ Bắc vào Nam và từ Đông sang Tây, Đà Nẵng gần kinh thành Huế. Nếu đánh chiếm Đà Nẵng sẽ làm bàn đạp để tấn công kinh thành Huế nhanh chóng kết thúc cuộc chiến tranh xâm lược nước ta của thực dân Pháp.
2/ Chiến sự ở Gia Định năm 1859:
Tôi sử dụng một bài tập lớn sau:
Chiến sự nổ ra ở Nam Kỳ. Thái độ chống Pháp của nhân dân ta và của triều đình nhà Nguyễn. Em nhận xét về thái độ nhà Nguyễn với việc kí Hiệp ước Nhâm Tuất.
Ở nội dung này, giáo viên có thể cho học sinh quan sát lược đồ vận dụng kiến thức Địa Lí để trả lời câu hỏi này:
* Vì sao thực dân Pháp sau khi thất thủ ở Đà Nẵng lại chọn tấn công Gia Định?
– Gia Định xa Trung Quốc tránh được sự can thiệp của nhà Thanh.
– Xa kinh thành Huế tránh sự tiếp viện không kịp thời của triều đình Huế.
– Chiếm vựa lúa, cắt nguồn lương thực của triều đình Huế.
– Chiếm các cảng biển quan trọng ở miền Nam trước khi Anh tiến vào. Chuẩn bị chiếm dò đường sang Cao Miên, Trung Quốc,…
* Thái độ chống Pháp của nhân dân ta và của triều đình nhà Nguyễn.
– Nhân dân tự động kháng chiến khiến Pháp khốn đốn.
Triều đình không kiên quyết chống xâm lược Pháp, triều đình Huế bỏ lỡ nhiều thời cơ để hành động, bỏ lỡ cơ hội giữ nền độc lập. Thái độ và sách lược sai lầm của các tướng lĩnh nhà Nguyễn đã để mất ba tỉnh miền Đông và Vĩnh Long vào tay Pháp với bản Hiệp ứơc Nhâm Tuất (5/6/1862) mà triều đình Huế kí kết với Pháp.
*Những nguyên nhân nào khiến nhà Nguyễn kí Hiệp ước Nhâm Tuất? Đánh giá của em về Hiệp ước 1862?
+ Nhà Nguyễn nhân nhượng với Pháp để bảo vệ quyền lợi giai cấp, dòng họ; rảnh tay phía Nam để đối phó với phong trào nông dân phía Bắc.
+ Hiệp ước đã vi phạm chủ quyền nước ta ( cắt đất cho Pháp ).
+ Nhà Nguyễn phải chịu trách nhiệm về việc đã để mất một phần lãnh thổ vào tay giặc.
Giáo viên đọc bài thơ “ Thất tỉnh Vĩnh Long ” của Phan Văn Trị nói về nỗi niềm của nhân dân ta khi nhà Nguyễn kí Hiệp ước Nhâm Tuất 1862:
Tò te kèn thổi tiếng năm ba,
Nghe lọt vào tai, dạ xót xa.
Uốn khúc sông rồng mù mịt khói,
Vắng hoe thành phụng ủ sầu hoa
Tan nhà, cám nỗi câu ly hận,
Cắt đất, thương thay cuộc giảng hòa
Gió bụi đòi cơn xiêu ngã cỏ,
Ngậm cười hết nói nỗi quan ta!.
Mục II: Cuộc kháng chiến chống Pháp từ năm 1858 đến năm 1873: ( 1tiiết)
Ở mục này trước hết về kiến thức lịch sử, GV có thể sử dụng bài tập lập bảng niên biểu về cuộc kháng chiến của nhân dân ta theo mẫu sau:
1.Trình bày sự kiện lịch sử theo bảng niên biểu thời gian từ khi Pháp xâm lược đến trước 1873.
Đáp án:
Thời gian Nội dung sự kiện
01- 09- 1858 Pháp- Tây Ban Nha nổ súng xâm lược tại Đà Nẵng.
09- 02- 1859 Pháp tới Vũng Tàu sau đó lên Sài Gòn.
17- 02- 1859 Pháp nổ súng đánh thành Gia Định.
Đầu 1860 Pháp sa lầy trong chiến tranh ở Trung Quốc và Italia.
03- 1860 Nguyễn Tri Phương được cử vào Gia Định ông xây dựng đại đồn Chí Hòa.
07- 1860 Đội nghĩa dũng do Dương Bình Tâm chỉ huy đã xung phong đánh đồn chợ Rẫy.
23- 02- 1861 Pháp tấn công Đại đồn Chí Hòa.
10- 12- 1861 Đội quân Nguyễn Trung Trực đánh chìm tàu Ét pê răng.
05- 06- 1862 Triều đình Huế kí với Pháp hiệp ước Nhâm Tuất.
Sau 1862 Trương Định phất cao lá cờ “ Bình Tây Đại Nguyên Soái”.
1862 Pháp vu cáo triều đình Huế vi phạm hiệp ước 1862.
20 đến 24- 06- 1867 Pháp chiếm trọn ba tỉnh miền Tây Nam Kì.
Sau khi học sinh hoàn thành xong bài tập GV có thể cho học sinh quan sát lược đồ Việt Nam , giáo viên chỉ khái quát để làm cho HS rõ hơn về vị trí của Nam kỳ và các căn cứ kháng chiến của nhân dân, những nơi có phong trào kháng chiến tiêu biểu.
Để hiểu rõ hơn tâm trạng hốt hoảng, hoang mang khi triều đình đã không chủ động đánh giặc khi thực dân Pháp tấn công của người dân giáo viên có thể sử dụng bài thơ “Chạy giặc” của Nguyễn Đình Chiểu để minh hoạ:
Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây
Một bàn cờ thế phút sa tay
Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy
Mất ổ bầy chim dáo dác bay
Bến Nghé của tiền tan bọt nước
Ðồng Nai tranh ngói nhuộm mầu mây
Hỏi trang dẹp loạn này đâu vắng?
Nỡ để dân đen mắc nạn này!
Hay bài “Tuyệt mệnh thi ” Hồ Huân Nghiệp nói về lòng trung nghĩa của ông đối với dân tộc:
Thấy nghĩa lòng đâu dám hững hờ
Làm trai trung hiếu quyết tôn thờ
Thân này sống chết khôn màng nhắc
Thương bấy mẹ già tóc bạc phơ
III. KẾT LUẬN
Như vậy, qua việc vận dụng một số kiến thức của các môn học liên quan giáo viên có thể làm bớt đi sự khô khan, nhàm chán của các sự kiện, sự căng thẳng trong giờ học lịch sử, thậm chí có thể rút gọn lượng thời gian của bài mà vần đạt hiệu quả theo yêu cầu bài học. Góp phần củng cố kiến thức các môn học được tích hợp qua tiêt dạy.
Tuy nhiên đây mới chỉ là ý chủ quan đề xuất chuyên đề, nội dung còn sơ lược rất mong sự đóng góp xây dựng của các đồng chí giáo viên trong tổ chuyên môn và các đồng chí giáo viên Ngữ Văn, Địa Lí, GDCD để chuyên đề được hoàn thiện hơn, góp phần vào việc xây dựng chủ đề tích hợp trong dạy học Lịch sử nói riêng và các môn học khác nói chung của chương trình giáo dục cấp THCS.